Năm 2014, sản lượng dầu gốc (base oil) nhập khẩu ước đạt 265 ngàn tấn, giảm 9% so với năm 2013. Trong khi đó, thành phẩm dầu bôi trơn và mỡ các loại nhập khẩu gần 80 ngàn tấn, tăng 32%. Đây là một khuynh hướng tất yếu vì sự cạnh tranh về giá nguyên liệu và sản phẩm có sự khác biệt giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN).
Việc dần gỡ bỏ hàng rào thuế quan để hình thành một khối tự do thương mại chung Asean (ATIGA) và các hiệp định tự do thương mại song phương giữa Korea, Trung quốc, Châu Âu và Asean không có ý nghĩa gia tăng lượng dầu nhớt nhập khẩu vào Việt nam vì bản chất 100% nguyên liệu dầu nhớt đều nhập khẩu. Nhưng sự gia tăng đáng kể về sản lượng nhập khẩu dầu mỡ nhờn thành phẩm vì một yếu tố duy nhất: giá thành sản xuất dầu nhớt tại các nước trong khu vực thấp hơn tại Việt nam. Vậy lợi thế nào để cạnh tranh cho sản xuất nội địa. Chúng tôi không thấy ánh sáng nào cho con đường này ngoại trừ có sự dư thừa nguồn cung nguyên liệu và giá dầu thấp như hiện nay được duy trì.
Phân khúc dầu nhớt cho ngành vận tải (78%)
Tổng tiêu thụ của toàn ngành ước đạt 290 ngàn tấn, giảm 3% so với năm 2013, một phần dễ hiểu vì sự sụt giảm của các nghiệp đoàn/công ty vận tải do vẫn còn ảnh hưởng suy thoái kinh tế năm 2013. Sự kiện, tháng 5 nóng bỏng với Trung quốc và sụt giảm số lượng đơn hàng (PMI) tiếp theo các tháng 6,7,8 đã ảnh hưởng đến mức hàng hoá lưu thông kéo theo sự ảnh hưởng cho ngành vận tải nói chung.
Sản lượng tiêu thụ về dầu cho xe máy (MCO) đứng ở mức cao (trên 100 ngàn tấn từ 2012) đến nay đã bão hoà và có phần đi xuống. Lượng xe máy đăng ký và lưu thông đạt 32 triệu chiếc, nhưng tăng trưởng giảm trung bình 3% so mức 5 năm gần đây (CAGR – Compound Annual Growth Rate 2008-2013: +6.5%). Tương lai gần, sản lượng tiêu thụ dầu xe máy sẽ giảm tiếp tục vì phương tiện vận chuyển công cộng gia tăng, xe tốt hơn, nhận thức sử dụng tiết kiệm hơn.
Cả nước có 1.7 triệu xe tải nhẹ và du lịch (xe hơi) tiêu thụ hơn 22 ngàn tấn dầu nhớt và phụ trợ. Nhu cầu xe hơi gia đình sẽ tăng trưởng các năm tiếp theo, tuy nhiên, mức tăng trưởng không cao do chính sách hạn chế phát triển phương tiện cá nhân và giá xe tại Việt nam rất cao (thuế). Thế nhưng khi mức tăng của tầng lớp trung lưu vượt bật thì tương lai là các loại xe gia đình chiếm ưu thế để dần thay thế xe máy hiện nay.
Khi sản lượng tiêu thụ toàn ngành công nghiệp dầu nhớt không tăng đáng kể (370 ngàn tấn so với 365 ngàn tấn năm 2013), nhưng ngành vận tải giảm sức tiêu thụ (78% so với 79% năm 2013) thì dường như có sự phát tiển về ngành công nghiệp nói chung.
Phân khúc dầu nhớt cho ngành công nghiệp (19%)
Chỉ số công nghiệp tăng 7,6% trong năm qua đánh giá khả năng phục hồi sản xuất sau 2 năm suy thoái kinh tế của Việt nam 2012-2013. Tuy nhiên, mức tăng vẫn còn “nhẹ nhàng” so với mức trên 11% trong nhiều năm trước 2011. Tỷ lệ tiêu thụ dầu nhớt đạt 19% toàn ngành, do sự suy giảm của phân khúc vận tải.
Ngành công nghiệp nặng vẫn yếu ớt với sản lượng thép dư thừa công suất và thép nhập khẩu từ Trung quốc. Cả nước tiêu thụ hơn 6 triệu tấn thép, trong khi lượng phôi thép sản xuất và nhập khẩu lên đến 11.6 tr tấn. Một số nhà máy thép thua lỗ và gần như phá sản (HLA, là ví dụ). Một số điểm sáng như Hoà Phát, Hoa Sen không thể đại diện cho cả một ngành công nghiệp cả nước với quy hoạch theo thành tích và thiếu tầm hay lợi ích phát triển địa phương cục bộ. Rồi đây Fomosa Hà Tỉnh hoạt động thì kéo theo sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp thép nội địa.
Tín hiệu khởi sắc hơn với lĩnh vực xây dựng, vực dậy một ngành công nghiệp xi măng lạc hậu với quy hoạch cũng tương tự..thép. Khai thách than, khoáng sản cũng thu hẹp hoạt động với sản lượng thấp. Không một nhà máy thuỷ điện nào hoàn thành, nhưng nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đi vào hoạt động.
Mảng sáng còn lại cho ngành công nghiệp là công nghiệp chế biến, cơ khí và phụ trợ cho các thương hiệu xe máy Honda, Yamaha…Ngành nhựa cũng duy trì mức tăng trưởng do giá nguyên liệu thấp… Kỳ vọng vào hiệp định TPP cũng làm bùng lên hoạt động đầu tư của công nghiệp dệt may
Phân khúc mỡ bôi trơn.
Thực tế, sản lượng mỡ bôi trơn đạt khoảng 10 ngàn tấn/năm. Mức tăng trưởng không cao, trong đó một lượng lớn (60%) được sản xuất nội đia bởi công nghệ thấp và sử dụng dầu gốc tái sinh để có giá sản phẩm rẻ tiền. Một số nhập khẩu mỡ từ Trung quốc để đóng gói. Đây là phân khúc kém cạnh tranh và gần như được xem như một sản phẩm”phụ trợ” bán kèm và “ai có phần nấy”
Nguồn: ESKA