Thị trường dầu nhớt Việt Nam năm 2014 (P2 :Chính sách thuế tác động lên chiên lược)

 

Theo Thông tư 165/2014/TT-BTC, Việt nam sẽ có lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng hoá nhập khẩu để hội nhập một cộng đồng ASEAN. Theo đó, đối với dầu nhớt và nguyên liệu sản xuất dầu nhớt (dầu gốc và phụ gia) sẽ có mức thuế chung 0% kể từ năm 2016. Điều này ảnh hưởng thế nào đến chiến lược của các nhãn hiệu lớn đang hoạt động tại Việt Nam?

Cũng theo Thông tư trên, từ 1/1/2015 đối với các loại dầu bôi trơn không có thành phần gốc dầu mỏ trên 70% như các loại dầu tổng hợp: ESTER, PAO, PAG,..v.v được sử dụng nhiều trong: dầu động cơ, dầu bánh răng,..thuế suất nhập khẩu được áp dụng 0% thay vì từ 18-20% như trước đây. Mã HS code 3403. Các loại dầu mỡ nhờn có thành phần Bitume, dầu gốc trên 70% vẫn giữ mức thuế suất 5% cho đến hết năm 2015. Mã HS code 2710.19.xx.

 

 Năng lực sản xuất nội địa

 Chỉ trừ sự rút lui sau khi bán tài sản cho Total của Mobil, Việt nam hiện diện gần như đầy đủ các nhãn hiệu dầu nhớt lớn như Shel, BP/Castrol, Shell, Chevron,…có nhà máy sản xuất tại Việt nam. Năm 2014, có thêm sự xuất hiện của 2 nhà máy JX Nippon và Idemittsu (Nhật bản) tại phía Bắc đã tăng năng lực sản xuất hay pha chế nội địa lên đến 345 ngàn Tấn sản phẩm/năm. Hiện nay chỉ có BP/Castrol là sử dụng vượt công suất còn tất cả các nhãn hiệu còn lại đều thừa công suất nhà máy.

Mô hình hoạt động trước đây của Mobil là một mô hình chuẩn về tính dự báo trước chính sách hay đánh giá trọng điểm về thị trường cũng như nhãn hiệu và ưu thế về sản phẩm. Mobil đã quay trở lại Việt nam sau 5 năm bán đi tài sản bao gồm nhà máy sản xuất và cả hệ thống phân phối của minh. Chevron và Shell cũng đã có ý tưởng này nhưng không thực hiện được vì có lẽ không chọn được một đối tác ưng ý. Do đó, khả năng vẫn có sự bán tài sản và chuyển đổi một mô hình hoạt động linh hoạt và hiệu quả trong tương lai. Nhất là khi hàng rào thuế quan không còn là rào cản giữa sản phẩm nhập khẩu từ Thái lan, Singapore hay thậm chí là Korea với Hiệp ĐịnhThương mại Tự do giữa Korea và Asean, và nguồn nguyên liệu dầu gốc, phụ gia, giá các vật liệu sản xuất (bao bì),..lại rẻ hơn ở Việt nam.

Vấn đề là không phải tất cả các hãng nước ngoài đều muốn bán nhà máy và chuyển sang hình thức nhập khẩu. Hiện nay, chính phủ Việt nam vẫn áp đặt quota (sản lượng) nhập khẩu về thành phẩm cho các hãng này hàng năm, để khuyến khích sản xuất nội địa. Việc đối phó cũng rất dễ dàng bằng cách nhập khẩu qua các thương nhân hay hãng về hậu cần (logistic) Việt nam (không hạn chế). Vấn đề là khi sản lượng lớn như BP/Castrol tính linh động về sản phẩm khi sản xuất nội địa vẫn kịp thời và hiệu quả hơn.

Khả năng sản xuất và kỹ thuật kém của các hãng dầu nhớt nội địa kém. Một số nhãn hiệu sẽ thu hẹp hoạt động trong vài năm tới vì sẽ không cạnh tranh được về giá và chất lượng với các nhãn hiệu nhập khẩu như Blackgold, GS,…Đối với nhãn hiệu mang tính chất “lai” như AP- Saigon Petrol cũng sẽ gặp khó khăn vì bị hạn chế nguồn cung bởi AP Singapore do đó giá nguyên liệu sẽ không cạnh tranh ở đầu vào. Một số nhãn hiệu như Solube, Mipec đã gần như biến mất…

 

Gia tăng xây dựng kênh phân phối.

Có thể thấy, kênh phân phối dầu nhớt của các hãng nước ngoài khá ổn định nhưng không phát triển thêm về quy mô và cả năng lực. Một phần vì sức ép target hàng năm quá lớn của các “ông chủ làm thuê”, một phần vì cạnh tranh giá, nên lợi nhuận tích luỹ của cả hệ thống rất kém. Điều này mang tính rủi ro cho chính hệ thống phân phối của các nhãn hiệu lớn. Tâm lý chán nản, co cụm trong kinh doanh, như đa phần hệ thống này đã được xây dựng và tồn tại trong suốt hơn 20 năm qua.

Không có sự đổi mới trong kênh phân phối nên khi thị trường có biến động về sức cầu suy giảm, cả một hệ thống sẽ trì trệ và mệt nhọc vì mất tính chiến đấu. Việc đổi mới và bổ sung liên tục hệ thống phân phối và tạo ra giá trị lợi nhuận tích luỹ cho hệ thống sẽ quyết định đến chiến lược của các nhãn hiệu để thay đổi phù hợp với một mô hình hoạt động linh hoạt hơn trong thời gian tới. Chúng tôi đánh giá cuộc chiến trong tương lai gần không phải là giá bán của sản phẩm mà chính là khả năng tác hợp những nhân tố phân phối có uy tín và khả năng phát triển cao để hỗ trợ cho chiến lược mới.

Năm 2014, các nhà phân phối đều phản ảnh không đạt sản lượng như kỳ vọng được ký kết đầu năm. Một số đã chọn các nhãn hiệu có nguồn gốc nhập khẩu để phân phối như một nhãn hiệu thứ 2 để giữ tính cạnh tranh và lợi nhuận.

 

Gia tăng sản phẩm nhập khẩu.

Một khuynh hướng là sản phẩm sản xuất nội địa Việt nam dần mất đi sức cạnh tranh về uy tín chất lượng và về giá thành sản phẩm so với các nước trong khu vực. Năm 2014, có sự bùng nổ cả về nhãn hiệu và số lượng sản phẩm dầu nhớt nhập khẩu từ các nước trong khu vực. Shell có nhà máy tại Korea/Singapore/Thailand, Total có tại Singapore, Chevron tại Singapore,..v.v Dường như sự “mắc cạn” tại Việt nam chỉ làm chậm đi quá trình thay đổi của số đông nhãn hiệu có tên tuổi

Nguồn:  Eska 

Để lại một bình luận